tam ly hoc nhan van
Cos C = (a2 + b2 - c2)/2ab. Định lý cos được dùng để tính cạnh thứ ba khi biết hai cạnh còn lại và góc giữa hai cạnh đó, hoặc tính các góc khi chỉ biết chiều dài ba cạnh của một tam giác. c2 = a2 + b2. Định lý cos được biểu diễn tương tự cho hai cạnh còn lại: a2 = b2 + c2
Hai là, văn học Lý - Trần đã vận động và phát triển trên cơ sở ý thức dân tộc, kết hợp với cảm hứng thời đại, mở ra một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam. Ở thời trung đại, trong đó có thời Lý - Trần, yêu nước gắn liền với lý tưởng trung
9 dấu hiệu cho thấy bạn là một người thấu cảm. 1. Bạn có trực giác nhạy bén. Bạn dường như có thể cảm nhận được mọi thứ xung quanh mình. Ngay cả những thay đổi nhỏ nhất trong hành động hay lời nói của người khác cũng khiến bạn nhận ra. 2. Bạn thường cảm
1. You can do it - Đánh thức sức mạnh phi thường bên trong bạn 01/11/2017. How did I become me? Nhận ra nguyên nhân các vấn đề về mối quan hệ và những trở ngại trong cuộc sống 03/10/2017.
TAM TÀI - THIÊN ĐỊA NHÂN. Cha mẹ ban cho ta hình hài thể xác - Địa Đạo. Tự ta có cho mình phần nhân tâm - Nhân Đạo. Thượng Đế ban cho ta Thần Linh Quang - Thiên Đạo. Thể xác là hình hài, sức khỏe với đầy đủ các sáu giác quan mắt tai mũi miệng lưỡi và Ý thức
Site De Rencontre Gratuit Dans Le 25. Tâm lý học là một ngành đang được chú trọng và có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, luận văn thạc sĩ tâm lý học là chủ đề khá khó làm. Bài viết này sẽ gợi ý 20 mẫu đề tài, kèm 6 mẫu bài luận tải hoàn toàn free, nhằm hỗ trợ bạn tốt nhất cho bài luận văn của bạn. Top 20 đề tài và 6 mẫu luận văn thạc sĩ tâm lý học xuất sắc nhất 1. 20 đề tài luận văn thạc sĩ tâm lý học hay 2022 Đề tài 01 Đề tài 02 Đề tài 03 Đề tài 04 Đề tài 05 Đề tài 06 Đề tài 07 Đề tài 08 Đề tài 09 Đề tài 10 Đề tài 11 Đề tài 12 Đề tài 13 Đề tài 14 Đề tài 15 Đề tài 16 Đề tài 17 Đề tài 18 Đề tài 19 Đề tài 20 2. Tải ngay 6 mẫu bài luận văn thạc sĩ tâm lý học Luận văn thạc sĩ tâm lý học về sinh viên ngành công nghệ thông tin Luận văn thạc sĩ tâm lý học trẻ em – quản lý cảm xúc Luận văn về tư vấn tâm lý học đường cho giáo viên Luận văn thạc sĩ tâm lý học tội phạm người chưa thành niên Luận văn thạc sĩ tâm lý học lâm sàng Luận văn thạc sĩ tâm lý học tư pháp 1. 20 đề tài luận văn thạc sĩ tâm lý học hay 2022 Đề tài 01 “Vấn đề khó khăn tâm lý trong quá trình điều trị nghiện ma túy của học viên tại trung tâm điều dưỡng và cai nghiện ma túy XXX” Đề tài 02 “Thực trạng về tác động của hỗ trợ xã hội và bạo lực đối với phụ nữ đối với mối liên hệ giữa sức khỏe tâm thần của người mẹ và sức khỏe tâm thần của trẻ” Đề tài 03 “Bầu không khí tâm lý xã hội tại Công ty XXX” Đề tài 04 “Vấn đề một số kỹ năng tham vấn cơ bản của cán bộ tham vấn tâm lý qua điện thoại tại Trung tâm XXX” Đề tài 05 “Thực trạng nghiên cứu mối quan hệ giữa việc chơi game với các vấn đề hành vi trên lớp của học sinh trung học cơ sở” Đề tài 06 “Cách thức ứng phó trước những khó khăn tâm lý của học sinh trung học phổ thông” Đề tài 07 “Giải pháp can thiệp cho một trường hợp trẻ 7 tuổi có rối loạn lo âu phân ly” Đề tài 08 “Giải pháp trị liệu tâm lý cho một trường hợp trẻ vị thành niên có triệu chứng trầm cảm” Đề tài 09 “Thực trạng về mối quan hệ suy giảm chức năng và sức khỏe tâm thần của học sinh Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông” Đề tài 10 “Thực trạng áp dụng liệu pháp tâm lý trong trị liệu một ca trầm cảm” Để có thêm nhiều ví dụ hơn về đề tài trong ngành y nói chung, bạn có thể tham khảo 50+ mẫu đề tài luận văn thạc sĩ y khoa để có cái nhìn bao quát hơn về toàn ngành và cách lựa chọn, đặt tên đề tài sao cho ấn tượng. 20 đề tài luận văn thạc sĩ tâm lý học Đề tài 11 “Thực trạng sử dụng liệu pháp nhận thức hành vi trong trị liệu tâm lý cho bệnh nhân rối loạn cảm xúc tại bệnh viện tâm thần XXX” Đề tài 12 “Giải pháp can thiệp tâm lý cho một trường hợp bệnh nhân trầm cảm có hành vi thủ dâm” Đề tài 13 “Thực trạng đánh giá của khách hàng về hoạt động tư vấn trên trang web tâm sự bạn trẻ” Đề tài 14 “Đánh giá tình hình khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông” Đề tài 15 “Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân tại khu chế xuất XXX” Đề tài 16 “Thực trạng về nhận thức của người bệnh trầm cảm về triệu chứng, nguyên nhân và cách điều trị rối loạn này” Đề tài 17 “Thích ứng tâm lý – xã hội của sinh viên năm thứ nhất tại Trường Đại học XXX” Đề tài 18 “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học XXX” Đề tài 19 “Thực trạng đánh giá hiệu quả của liệu pháp cảm xúc hành vi hợp lý REBT trên bệnh nhân trầm cảm đến điều trị tại Bệnh viện tâm thần XXX” Đề tài 20 “Thực trạng một số rối nhiễu tâm lý của sinh viên Đại học XXX” Bật mí 25+ mẫu luận văn thạc sĩ quản lý bệnh viện được Luận Văn Việt chọn lọc từ những bài top điểm cao trường đứng đầu cả nước! 2. Tải ngay 6 mẫu bài luận văn thạc sĩ tâm lý học Luận văn thạc sĩ tâm lý học về sinh viên ngành công nghệ thông tin Tên đề tài “Thực trạng nghiên cứu đặc điểm nhân cách và những vấn đề cảm xúc hành vi ở sinh viên ngành công nghệ thông tin” Nhận xét chung Tìm hiểu thực trạng đặc điểm nhân cách và cảm xúc hành vi của sinh viên. Mối liên hệ giữa đặc điểm nhân cách, các vấn đề cảm xúc hành vi và dự báo xu hướng tác động của từng mặt nhân cách đến các vấn đề cảm xúc hành vi. Đề xuất một vài những giải pháp để hỗ trợ công tác tư vấn hướng nghiệp và tâm lý học đường trong trường học hiệu quả hơn. Thực trạng nghiên cứu đặc điểm nhân cách và những vấn đề cảm xúc hành vi ở sinh viên ngành công nghệ thông tin Link tải drive Luận văn thạc sĩ tâm lý học trẻ em – quản lý cảm xúc Tên đề tài “Thực trạng về kỹ năng quản lý cảm xúc của sinh viên ngành Giáo dục Mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh” Nhận xét chung Nghiên cứu lý luận, tìm hiểu thực trạng kỹ năng quản lý cảm xúc của sinh viên ngành Giáo dục Mầm non. Đề xuất một số biện pháp nâng cao kỹ năng quản lý cảm xúc của sinh viên ngành này. Thực trạng về kỹ năng quản lý cảm xúc của sinh viên ngành Giáo dục Mầm non Link tải drive Luận văn về tư vấn tâm lý học đường cho giáo viên Tên đề tài “Nghiên cứu kết quả triển khai mô hình bồi dưỡng kỹ năng tư vấn tâm lý cho giáo viên chủ nhiệm các trường trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Kiên Giang” Nhận xét chung Kết quả của triển khai mô hình và các biện pháp bồi dưỡng kỹ năng tư vấn tâm lý, có sự thay đổi rõ rệt theo hướng tích cực. Phân tích mô hình và các biện pháp bồi dưỡng kỹ năng triển khai thực nghiệm có tính hiệu quả và khả thi. Triển khai nhân rộng mô hình này cho các địa phương khác thuộc tỉnh Kiên Giang. Nghiên cứu kết quả triển khai mô hình bồi dưỡng kỹ năng tư vấn tâm lý cho giáo viên chủ nhiệm Link tải drive Luận văn thạc sĩ tâm lý học tội phạm người chưa thành niên Tên đề tài “Thực trạng một số đặc trưng tâm lý của nhóm người chưa thành niên phạm tội ở thành phố Hồ Chí Minh” Nhận xét chung Nghiên cứu những đặc điểm tâm lý ở những giai đoạn lứa tuổi đã ảnh hưởng đến suy thoái nhân cách và quá trình thực hiện tội phạm. Đưa ra biện pháp giúp cho việc phòng ngừa, điều tra khám phá tội phạm của nhóm người chưa thành niên. Góp phần giáo dục và uốn nắn nhân cách các em trở thành người có ích cho xã hội. Luận văn tâm lý học tội phạm người chưa thành niên Link tải drive Với đề tài thuộc ngành Y học, Luận Văn Việt đã được đảm nhiệm trên 200 bài luận đến từ 50+ trường đại học danh tiếng cả nước. Nếu bạn đang gặp khó khăn trong quá trình làm bài, đừng ngần ngại mà liên hệ ngay tới dịch vụ làm luận văn với hơn 18 năm kinh nghiệm cùng đội ngũ chuyên gia học vấn cao chắn chắn sẽ không làm bạn thất vọng! Luận văn thạc sĩ tâm lý học lâm sàng Tên đề tài “Giải pháp áp dụng liệu pháp tâm lý trong trị liệu một ca trầm cảm” Nhận xét chung Nghiên cứu về trầm cảm và can thiệp trầm cảm bằng liệu pháp tâm lý và trình bày cơ sở lý luận, đánh giá, chẩn đoán vấn đề của thân chủ. Góp phần thực hiện can thiệp vấn đề trầm cảm, nhận thức sai lệch cho thân chủ. Đánh giá hiệu quả can thiệp, đưa ra kết luận và khuyến nghị việc áp dụng những liệu pháp tâm lý. Luận văn thạc sĩ tâm lý học lâm sàng Link tải drive Luận văn thạc sĩ tâm lý học tư pháp Tên đề tài “Nghiên cứu vấn đề tâm lý trong Tâm lý học tư pháp” Nhận xét chung Phân tích việc sử dụng hai nhóm phương pháp trong thực tiễn hoạt động tư pháp. Một là nhóm các phương pháp nghiên cứu tâm lý, hai là nhóm các phương pháp tác động tâm lý. Nghiên cứu nhân cách và cách sử dụng hai nhóm phương pháp thực tiễn ảnh hưởng đến đời sống thực tế. Nghiên cứu vấn đề tâm lý trong Tâm lý học tư pháp Link tải drive Đừng bỏ lỡ 20+ đề tài cùng 6+ mẫu luận văn thạc sĩ y tế công cộng miễn phí 100% Trên đây là top 20 đề tài và 6 mẫu luận văn thạc sĩ tâm lý học xuất sắc nhất mà Luận Văn Việt đưa ra cho các bạn tham khảo. Mong rằng bài viết sẽ giúp ích cho việc thực hiện và hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất. Nếu bạn gặp vấn đề trong quá trình làm bài luận văn, hãy nhanh tay liên hệ số hotline 0915 686 999 để được hỗ trợ và tư vấn về dịch vụ viết luận văn. Hiện tại tôi đang đảm nhiệm vị trí Content Leader tại Luận Văn Việt. Tất cả các nội dung đăng tải trên website của Luận Văn Việt đều được tôi kiểm duyệt và lên kế hoạch nội dung. Tôi rất yêu thích việc viết lách ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và đến nay thì tôi đã có hơn 5 năm kinh nghiệm viết bài. Hy vọng có thể mang đến cho bạn đọc thật nhiều thông tin bổ ích về tất cả các chuyên ngành, giúp bạn hoàn thành bài luận văn của mình một cách tốt nhất! Post Views
Tâm lý học nhân văn là hướng đến con người làm mục tiêu trọng tâm để xử lý các vấn đề liên quan. Hiện nay tâm lý học nhân văn được áp dụng rộng rãi trong cuộc sống. Theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về trường phái tâm lý này nhé. Tìm hiểu tâm lý học nhân văn là gì?Lịch sử tâm lý học nhân vănCác học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân vănNhà tâm lý học nhân văn Abraham MaslowCác đề cương của Tâm lý học nhân vănThứ bậc các nhu cầu của con ngườiTự thể hiện mìnhCarl RogersCác phê bìnhCống hiến Khác với ngành tâm lý học tội phạm ở Việt Nam thì Tâm lý học nhân văn là sự kết hợp hài hòa của hai triết học lãng mạn và hiện sinh, và còn được gọi là tâm lý học lực lượng thứ ba. Tâm lý học nhân văn là một trong các ngành liên quan đến tâm lý học, coi con người làm trọng tâm, một thực thể biểu tượng có khả năng tư duy về hiện hữu mình, mang lại những giá trị nhân văn trong việc điều trị nội tâm của một đối tượng cụ thể, giúp vượt qua khó khăn để hòa mình với cuộc sống. Tâm lý học nhân văn Lịch sử tâm lý học nhân văn Vào đầu thập niên 1960, một phong trào được mệnh danh là tâm lý học lực lượng thứ ba đã được khởi xướng bởi nhóm nhà triết học do Abraham Maslow cầm đầu. Theo các nhà triết học này, trường phái hành vi và trường phái tâm học đã bỏ quên một số thuộc tính quan trọng của con người. Cái thiếu sót chính là những thông tin có thể giúp chúng ta làm cho người bình thường trở nên khỏe mạnh hơn. Điều đó có nghĩa giúp họ đạt hết mức tiềm năng của họ. Lịch sử hình thành tâm lý học nhân văn Điều cần thiết để có một mô hình về con người nhấn mạnh tính độc đáo của họ và các khía cạnh tích cực hơn là tiêu cực của họ. Và đây cũng chính là cái mà tâm lý học lực lượng thứ ba nhằm cung cấp. Mặc dù chỉ mới phổ biến trong các thập niên 1970 và 1980, nhưng tâm lý học lực lượng thứ ba lại mờ nhạt trong thập niên 1980. Thế nhưng trường phái này vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong tâm lý học hiện đại. Trước khi quyết định theo đuổi một ngành nghề nào đó chắc hẳn các bạn sẽ tìm hiểu sơ lược những thông tin liên quan đến ngành đó ra sao. Cụ thể trong ngành này câu hỏi đặt ra chính là Tâm lý học là gì? Cơ hội việc làm ngành tâm lý học ra sao? Cùng tìm hiểu vấn đề này tại website tuyển sinh đại học Đông Á để hiểu rõ hơn nhé! Các học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân văn Dưới đây là một số học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân văn chúng tôi muốn giới thiệu đến bạn Nhà tâm lý học nhân văn Abraham Maslow Maslow 01/04/1908 sinh ra và lớn lên tại Brooklyn – New York. Ông là con trưởng trong một gia đình có 7 anh em. Cha mẹ của ông là người Do Thái di cư từ Nga sang Hoa Kỳ. Là đứa bé người Do Thái duy nhất trong xóm, ông rất cô đơn và nhút nhát. Ông thường tìm sự ẩn náu nơi sách vở và các cuộc tìm tòi tri thức. Chính vì vậy, ông đã trở thành học sinh xuất sắc ở Boys High School tại Brooklyn và tiếp tục lên học tại City College ở New York. Trong khi học ở City College, chiều theo ý của cha, ông đã theo học trường luật. Tuy nhiên chán học luật, ông đã bỏ sách vở và ra về. Sau một thời gian, ông vào học tại Đại học Wisconsin và sau đó đậu cử nhân vào năm 1930, thạc sĩ năm 1931 và tiến sĩ năm 1934. Khi đang là nghiên cứu sinh ở Wisconsin, Maslow trở thành sinh viên tiến sĩ đầu tiên của nhà tâm lý học thực nghiệm nổi tiếng Harry Harlow. Luận án tiến sĩ của ông viết về đề tài sự thiết lập quyền thống trị trong một quần thể khỉ. Nhà tâm lý học nhân văn Abraham Maslow Theo như ông nhận thấy, quyền thống trị là do một sự “tín nhiệm bên trong” hơn là sức mạnh thể lý, điều này đã ảnh hưởng tới lý thuyết sau này của ông. Ông cũng nhận thấy rằng hành vi tính dục trong quần thể khỉ cũng liên quan đến quyền thống trị và sự phục tùng, và ông tự hỏi liệu hoạt động tính dục của con người có giống như thế không. Vào năm 1951, Maslow nhận chức trưởng khoa tâm lý học tại Đại học Brandeis ở Waltham, Massachusetts. Và trở thành nhân vật hàng đầu của phong trào tâm lý học nhân văn. Nhờ vào sự cố gắng của Maslow, một loạt sự kiện đã ra đời 1961 Tạp chí Tâm lý học nhân văn được ra đời 1962 Hội các nhà Tâm lý học Nhân văn Hoa Kỳ ra đời 1971 Ngành Tâm lý học Nhân văn được sáng lập. Các đề cương của Tâm lý học nhân văn Theo Maslow các nhà tâm lý học có các niềm tin cơ bản như sau Không có nhiều điều kiện giá trị có thể học hỏi được từ việc nghiên cứu các loài vật. Thực tại chủ quan là hướng dẫn hàng đầu cho việc nghiên cứu các hành vi của con người. Nghiên cứu các cá nhân mang lại nhiều thông tin hơn so với việc nghiên cứu những điểm chung của các tập thể. Cố gắng khám phá những điều làm mở mang hay làm giàu cho kinh nghiệm con người. Nghiên cứu phải tìm các thông tin giúp giải quyết mọi vấn đề con người Mục tiêu của ngành tâm lý học chính là hình thành một mô tả đầy đủ về ý nghĩa của hiện hữu con người là gì. Thứ bậc các nhu cầu của con người Tầng 1 Nhu cầu sinh lý Tầng 2 Nhu cầu về an toàn Tầng 3 Nhu cầu về xã hội Tầng 4 Nhu cầu được quý trọng Tầng 5 Nhu cầu được thể hiện mình Tháp nhu cầu của con người Tự thể hiện mình Con người chúng ta không ai có thể đạt tới đầy đủ tiềm năng của mình. Chính vì vậy Maslow cho rằng người tự thể hiện mình là người đã thỏa mãn thích đáng thứ bậc nhu cầu. Các tính chất của những người được xem là đã tự thể hiện mình theo Maslow bao gồm Nhận thức được thực tại chính xác và đầy đủ Chấp nhận mình và người khác Có sự tự nhiên và tự phát Có nhu cầu riêng tư của chính mình Có khuynh hướng độc lập với môi trường văn hóa Có sự đánh giá liên tục đổi mới Có kinh nghiệm thần bí hay tột đỉnh Biết quan tâm tới mọi người Thông thường sẽ có ít bạn thân Có tinh thần dạo đức mạnh Có đầu óc khôi hài Có trí sáng tạo. CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM Tâm lý học lâm sàng – Chuyên ngành độc lập của tâm lý học Ngành tâm lý học giáo dục – Ngành học nhiều cơ hội cho sinh viên Carl Rogers Carl Rogers 1902-1987 là con thứ 4 trong gia đình có 6 anh chị em. Ông sinh ngày 8 tháng 1 tại Oak Oak, bang Illinois. Từ nhỏ ông đi học cùng trường với Ernest Hemingway và các con của kiến trúc sư nổi tiếng Frank Lloyd Wright. Theo Rogers thì gia đình ông như là rất gắn bó với tôn giáo và rất sùng đạo và các mối quan hệ với bạn bè bên ngoài không được gia đình khuyến khích. Chính vì vậy mà ông cũng cô đơn giống như Maslow. Carl Rogers Năm ông 12 tuổi, gia đình đã chuyển đến một nông trại cách Chicago 25 dặm về phía Tây. Mục đích chính là để tạo nên bầu không khí trong lành và đạo đức hơn cho gia đình. Theo mong muốn của cha ông cần nông trại điều hành một cách khoa học. Nên Roger đã phát triển một sự quan tâm sâu xa đối với khoa học. Năm 1919, Rogers vào Đại học Wisconsin theo ngành canh nông. Năm 1924 ông chuyển sang học lịch sử và đậu cử nhân Năm 1928 ông đậu thạc sĩ lâm sàng tại Đại học Columbia. Năm 1931 ông đậu tiến sĩ với luận án viết về việc đo lường sự điều chỉnh nhân cách nơi trẻ em. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, Rogers đến làm việc cho Ban Nghiên cứu trẻ em của Hội ngăn ngừa bạo lực đối với Trẻ em ở Rochester, New York. Nơi đây đã giúp ông có nhiều kinh nghiệm dẫn tới việc triển khai kiểu tâm lý trị liệu của riêng ông. Lý thuyết nhân cách của Carl Rogers Các phê bình Một số phê bình đối với tâm lý học nhân văn tập trung vào điểm sau Tâm lý học này đồng hóa tâm lý học hành vi với công trình của Watson và Skinner. Không xét đến bản chất tích lũy của khoa học bằng cách nhấn mạnh rằng Tâm lý khoa học không quan tâm đến các thuộc tính siêu vật của con người. Mô tả về con người giống như các nhà nhân văn đề nghị, điều đó giống với các mô tả được ưa thích trong quá khứ trong lĩnh vực văn học, thi ca hay tôn giáo. Phê bình thuyết hành vi, tâm phân học và tâm lý khoa học nói chung. Các thuật ngữ sử dụng quá mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng. Các phê bình đối với tâm lý học nhân văn Cống hiến Tâm lý học nhân văn cống hiến cho khoa học tâm lý học Mở rộng lĩnh vực tâm lý học Thổi một sức sống mới vào tâm lý học. Nhìn thấy bản chất tốt đẹp trong con người từ đó đề cao hoài bão và nỗ lực vươn lên của con người. Hướng con người tìm được bản ngã đích thực của mình. Chắc hẳn nội dung bài viết trên đây đã giúp bạn hiểu rõ hơn về tâm lý học nhân văn là gì và các học giả nổi tiếng của trường phái tâm lý học này. Hy vọng đây sẽ là những thông tin có ý nghĩa và thật sự hữu ích dành cho bạn.
Tâm lý học nhân văn là một trong những trường phái tâm lý phổ biến được sử dụng rộng rãi với nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Giống như tên gọi của chính mình, trường phái tâm lý học nhân văn tập trung các yếu tố vào con người. Lấy con người làm trung tâm và chủ đạo để xử lý các vấn đề liên quan. Vậy lịch sử và khái niệm của tâm lý học nhân văn là gì? Vai trò và ý nghĩa của tâm lý học nhân văn với cuộc sống hiện đại. Cùng Thanhbinhpsy khám phá về trường phái tâm lý học này trong bài viết dưới đây nhé. Tâm lý học nhân văn hay còn được gọi là tâm lý học lực lượng thứ ba kết hợp hai triết học lãng mạn và hiện sinh, và sự kết hợp này được gọi là tâm lý học nhân văn. Tâm lý học lực lượng thứ ba và Tâm lý học nhân văn cũng là một, nhưng ngày nay tâm lý học nhân văn đã trở thành tên gọi phổ biến hơn. Tâm lý học nhân văn hay còn được gọi là tâm lý học lực lượng thứ ba kết hợp hai triết học lãng mạn và hiện sinh Điểm chính của tâm lý học nhân văn là nó tập trung vào tính biệt loại của con người, vào cái phân biệt con người với các loài khác. Nó khác các loại tâm lý học khác bởi vì nó coi con người không chỉ như là một sinh vật được biến đổi bởi văn hóa và kinh nghiệm, nhưng như là một nhân vị, một thực thể biểu tượng có khả năng suy tư về hiện hữu mình, và có khả năng cho hiện hữu mình một ý nghĩa, một hướng đi. Kinget, 1975, Lịch sử hình thành tâm lý học nhân văn Vào đầu thập niên 1960, một nhóm nhà triết học do Abraham Maslow cầm đầu đã khởi xướng một phong trào được mệnh danh là tâm lý học lực lượng thứ ba. Các nhà triết học này cho rằng trường phái hành vi và trường phái phân tâm học, đã bỏ quên một số thuộc tính quan trọng của con người. Cái thiếu sót ở đây là những thông tin có thể giúp ta làm cho những người bình thường trở nên mạnh khỏe hơn, nghĩa là giúp họ đạt hết mức tiềm năng của họ. Điều cần thiết có một mô hình về con người nhấn mạnh tính độc đáo của họ và các khía cạnh tích cực hơn là tiêu cực của họ, và kiểu mô hình này chính là cái mà tâm lý học lực lượng thứ ba nhằm cung cấp. Tâm lý học lực lượng thứ ba ra đời vào những thập lỷ 70-80 của thế kỷ XX Mặc dù tâm lý học lực lượng thứ ba phổ biến trong các thập niên 1970 và 1980, nhưng lại bắt đầu mờ nhạt trong thập niên 1980. Tuy nhiên, giống như thuyết hành vi và phân tâm học, tâm lý học lực lượng thứ ba vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong tâm lý học hiện đại. Xem thêm >>> Dịch Vụ Trị Liệu Tâm Lý Tại Nhà Ở TPHCM Những tác động của tâm lý học nhân văn với ngành tâm lý học Tâm lý học nhân văn có ảnh hưởng không hề nhỏ đối với quá trình phát triển của ngành tâm lý học. Thậm chí, nó còn đóng góp một phần to lớn của mình vào quá trình nhận thức mới về hành vi, động cơ của con người. Chưa kể, nhờ có tâm lý học nhân văn, xã hội cũng có những bước phát triển vượt bậc về kỹ thuật điều trị và cách tiếp cận mới trong các liệu pháp tâm lý. Dưới đây là một số ý tưởng và khái niệm chính xuất hiện do kết quả của việc nghiên cứu tâm lý học nhân văn Các liệu pháp về thân chủ trọng tâm. Khái niệm về ý chí tự do. Ý tưởng về một người có đầy đủ các chức năng xã hội. Khái niệm về tháp nhu cầu của Maslow. Một số trải nghiệm đỉnh cao, sự tự hiện thực hóa. Khái niệm bản thân cũng chính là kết quả của phong trào tâm lý học nhân văn. Khái niệm về sự quan tâm tích cực vô điều kiện. Khám phá thế mạnh của chính bản thân con người, phát triển tầm nhìn mục tiêu mỗi cá nhân. Điểm danh các tác động tâm lý học nhân văn vào ngành tâm lý học Các học giả nổi tiếng của tâm lý học nhân văn Abraham Maslow Một số người cho rằng Alfred Adley mới chính là nhà tâm lý học nhân văn đầu tiên. Do ông định nghĩa lối sống lành mạnh là lối sống phản ảnh một lượng lớn các mối quan tâm xã hội, và với ý niệm của ông về ngã sáng tạo. Ông nhấn mạnh rằng người ta trở thành con người thế nào chủ yếu là do sự chọn lựa cá nhân. Chắc chắn lý thuyết của Adler có rất nhiều điểm chung với các lý thuyết sau này gọi là nhân văn. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, người ta nhìn nhận Abraham Maslow 1908-1970 là người có công làm cho tâm lý học nhân văn trở thành một ngành tâm lý học chính thức. Maslow sinh ngày 01 tháng 4 năm 1908 tại Brooklyn, New York. Ông là con trưởng trong 7 anh em mà cha mẹ là những người Do Thái di cư từ Nga sang Hoa Kỳ. Không gần gũi lắm với cha mẹ và là đứa bé Do Thái duy nhất trong xóm. Ông rất cô đơn và nhút nhát, thường tìm sự ẩn nấu nơi sách vở và các cuộc tìm tòi tri thức. Ông là một học sinh xuất sắc ở Boys High School tại Brooklyn và tiếp tục lên học tại City College ở New York. Trong khi học ở City College, ông cũng chiều theo ý của cha ông muốn ông trở thành luật sự, nên đã theo học trường luật. Nhưng chán học luật, một điêm ông bỏ cả sách vở ở lớp và ra về. Sau một thời gian, ông vào học tại Đại học Wisconsin và tại đây ông đậu cử nhân năm 2930, thạc sĩ năm 1931, và tiến sĩ năm 1934. Abraham Maslow Khi là nghiên cứu sinh ở Wisconsin, Maslow trở thành sinh viên tiến sĩ đầu tiên của nhà tâm lý học thực nghiệm nổi tiếng Harry Harlow. Luận án tiến sĩ của Maslow viết về đề tài sự thiết lập quyền thống trị trong một quần thể khỉ. Ông nhận thấy quyền thống trị là do một sự “tín nhiệm bên trong” hơn là sức mạnh thể lý và sự nhân xét này đã ảnh hưởng tới lý thuyết sau này của ông. Maslow cũng nhận thấy rằng hành vi tính dục trong quần thể khỉ cũng liên quan đến quyền thống trị và sự phục tùng, và ông tự hỏi liệu hoạt động tính dục của cong người có giống như thế không. Năm 1951 ông chấp nhận chức trưởng khoa tâm lý học ở Đại học Brandeis ở Waltham, Massachusetts. Và chính tại đây Maslow trở thành nhân vật hàng đầu của phong trào tâm lý học nhân văn. Chủ yếu nhờ vào cố gắng của Maslow, Tạp chí Tâm lý học nhân văn được ra đời năm 1961; Hội các nhà Tâm lý học Nhân văn Hoa Kỳ ra đời vào năm 1962; và một ngành của Hội Tâm lý học Hoa Kỳ, gọi là ngành Tâm lý học Nhân văn được sang lập vào năm 1971. Các đề cương của Tâm lý học nhân văn Theo Maslow các nhà tâm lý học hoạt động trong mẫu tâm lý học nhân văn có các niềm tin cơ bản sau Không có nhiều điều gía trị có thể học hỏi được từ việc nghiên cứu loài vật. Thực tại chủ quan là hướng dẫn hàng đầu cho việc nghiên cứu hành vi con người. Nghiên cứu các cá nhân mang lại nhiều thông tin hơn nghiên cứu những điểm chung của các tập thể. Cần có cố gắng đặc biệt để khám phá những điều làm mở mang hay làm giàu cho kinh nghiệm con người. Nghiên cứu phải tìm các thông tin giúp giải quyết các vấn đề con người. Mục tiêu của tâm lý học phải là hình thành một mô tả đầy đủ về ý nghĩa của hiện hữu con người là gì. Mô tả này phải bao gồm tầm quan trọng của ngôn ngữ, quy trình đánh giá, phạm vi đầy đủ các cảm xúc, và cách thức mà con người tìm kiếm và đạt đến ý nghĩa cuộc đời của họ. Tập hợp các đề cương của Tâm lý học nhân văn Thông tin thêm Tìm hiểu thông tin về nhà tâm lý học Carl Rogers Thứ bậc các nhu cầu của con người Theo Maslow, các nhu cầu con người được sắp đặt theo một thứ bậc. Các nhu cầu càng thấp trong thứ bậc, chúng càng cơ bản và càng giống với các nhu cầu của loài vật. Các nhu cầu càng cao trong thứ bậc, chúng càng đặc trưng cho con người. Tháp nhu cầu của Maslow Các nhu cầu được sắp đặt sao cho khi người ta thỏa mãn một nhu cầu thấp hơn, người ta có thể xử lý một nhu cầu cao hơn. Thứ bậc các nhu cầu của Maslow có thể tóm tắt trong biểu đồ dưới đây Tự thể hiện mình Maslow hiểu sự tự thể hiện mình có nghĩa là đạt đầy đủ tiềm năng con người Các nhạc sĩ phải làm nhạc, các họa sĩ phải vẽ, các thi sĩ phải viết nếu họ muốn cảm thấy hài long với chính mình. Con người có thể là gì thì họ phải là như thế. Họ phải là đúng với bản tính họ. Nhu cầu này chúng ta có thể gọi là nhu cầu tự thể hiện mình. Khái niệm về sự tự thể hiện mình đã bắt nguồn ít là từ thời Aristotle, nhưng Aristotle hiểu sự tự thể hiện mình là khuynh hướng bẩm sinh biểu hiện các tính chất hay yếu tính của một loài. Với khái niệm tự thể hiện, cả Jung, Maslow và Rogers có ý nói tới sự thể hiện tiềm năng của một cá nhân, không phải tiềm năng của loài như lối hiểu của Aristotle. Vì không ai có thể đạt tới đầy đủ tiềm năng của mình, nên Maslow cho rằng người tự thể hiện mình là người đã thỏa mãn thích đáng bậc thang các nhu cầu. Và ông đã liệt kê các tính chất của những người được xem là đã tự thể hiện mình như sau Họ nhận thức thực tại chính xác và đầy đủ. Họ rất biết chấp nhận mình và người khác. Tỏ ra có sự tự nhiên và tự phát. Có nhu cầu riêng tư. Có khuynh hướng độc lập với môi trường và văn hóa. Có sự đánh giá liên tục đổi mới. Định kỳ có các kinh nghiệm thần bí hay tột đỉnh. Quan tâm tới mọi người thay vì chỉ quan tâm tới bạn bè hay người thân của họ. Thường chỉ có ít bạn thân. Có một tinh thần đạo đức mạnh nhưng không nhất thiết chấp nhận đạo đức truyền thống. Có óc khôi hài rất phát triển nhưng không mang tính thù nghịch. Có óc sáng tạo. Tuy Maslow kết luận rằng loại người này là những con người xuất chúng, ông cũng cho thấy không phải họ không có khuyết điểm. Xem thêm Nhà tâm lý học Angela Lee Duckworth là ai? Carl Rogers Carl Rogers 1902-1987 sinh ngày 8 tháng 1 tại Oak Oak một ngoại ô Chicago, bang Illinois, và là con thứ tư trong gia đình sáu anh chị em. Ông gần gũi với mẹ hơn cha, một kỹ sư công trình và vắng nhà thường xuyên. Ở vùng Oak Park, ông đi học cùng trường với Ernest Hemingway và các con của kiến trúc sư nổi tiếng Frank Lloyd Wright. Rogers mô tả gia đình ông như là rất gắn bó với tôn giáo và rất sung đạo. Các quan hệ với bạn bè bên ngoài không được gia đình khuyến khích. Carl Rogers Không lạ gì Rogers tỏ ra rất cô đơn ở trường học và giống như Maslow, ông tìm trú ẩn trong sách vở, đọc bất cứ cái gì ông vớ được kể cả các sách bách khoa và từ điển. Năm 12 tuổi gia đình ông dời đến một nông trại cách Chicago 25 dặm về phía Tây. Mục đích của đổi nhà là tạo một bầu khí trong lành và đạo đức hơn cho gia đình. Vì cha ông đòi hỏi nông trại được điều hành một cách khoa học, Rogers đã phát triển một sự quan tâm sâu xa đối với khoa học bằng cách đọc bất cứ tài liệu nào ông có thể kiếm. Sau khi tốt nghiệp trung học, Rogers vào Đại học Wisconsin năm 1919 và theo ngành canh nông. Đến năm 1924 ông đổi lại sang học lịch sử và đậu cử nhân năm 1924. Một thời gian ngắn sau ông đến Đại học Columbia và tại đây ông đậu thạc sĩ lâm sàng năm 1928 và tiến sĩ năm 1931. Luận án tiến sĩ của ông viết về việc đo lường sự điều chỉnh nhân cách nơi trẻ em. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, Rogers đến làm việc cho Ban Nghiên cứu trẻ em của Hội ngăn ngừa bạo lực đối với Trẻ em ở Rochester, New York. Tại đây ông đã có nhiều kinh nghiệm để dẫn ông tới việc triển khai kiểu tâm lý trị liệu của riêng ông. Lý thuyết của Rogers về nhân cách Theo yêu cầu của nhiều người, Rogers đã triển khai một lý thuyết về nhân cách để cắt nghĩa các hiện tượng ông đã quan sát trong tiến trình điều trị. Các yếu tố cơ bản của lý thuyết của ông được trình bày lần đầu tiên trong bài diễn thuyết ông đọc khi nhận chức chủ tịch APA 1947 và sau này được mở rộng trong cuốn Trị liệu dựa vào khách hàng 1951. Giống như Maslow, Roger giả thuyết có một động cơ bẩm sinh nơi con người hướng tới sự tự thể hiện mình. Và nếu người ta lấy khuynh hướng tự thể hiện này làm tiêu chuẩn sống, có nhiều khả năng họ sẽ thể hiện đời sống một cách sung mãn và cuối cùng đạt hết tiềm năng của họ. Ta gọi những người như thế là những người sống theo quá trình đánh giá hữu cơ. Sử dụng quy trình này, người ta đạt tới và duy trì được các kinh nghiệm phù hợp với khuynh hướng tự thể hiện nhưng ngăn chặn và tránh được các kinh nghiệm không phù hợp với khuynh hướng ấy. Lý thuyết nhân cách của Carl Roger tập trung vào thân chủ trọng tâm Những người như thế được thúc đẩy bởi các tình cảm chân chính của họ và sống một đời sống trung thực theo kiểu nói của các nhà hiện sinh – nghĩa là một đời sống được thúc đẩy bởi các tình cảm nội tâm chân chính chứ không phải bởi tập tục, niềm tin, truyền thống, giá trị hay các quy ước do người khác áp đặt. Tiếc thay, theo Rogers, nhiều người không sống theo các tình cảm sâu xa nhất của nội tâm họ. Một vấn đề phát sinh là vì tuổi thơ chúng ta có nhu cầu được nhìn nhận tích cực. Sự nhìn nhận tích cực bao gồm việc đón nhận các thứ như tình yêu, sự âu yếm, thiện cảm, và sự chấp nhận của những người có liên quan đến đời sống của một đứa trẻ. Nếu người ta dành cho đứa trẻ sự nhìn nhận một cách vô điều kiện, thì không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng thường người ta không làm một cách vô điều kiện. Thường các cha mẹ hay những người có liên quan chỉ dành sự kính trọng cho đứa trẻ nếu nó hành động hay suy nghĩ theo một lối nhất định nào đó. Điều này đặt ra các điều kiện về giá trị. Trẻ em sẽ sớm nhận ra rằng để được yêu thương, chúng phải hành động và suy nghĩ phù hợp với các giá trị của những người có liên quan đến cuộc sống của chúng. Dần dần, khi đứa trẻ ngày càng nội tâm hóa các giá trị, các giá trị ấy sẽ trở thành tiêu chuẩn cho đời sống của chúng. Nghĩa là chúng sẽ sống theo các điều kiện về giá trị do người khác áp đặt. Theo Rogers, chỉ có một cách để tránh áp đặt các điều kiện về giá trị trên người khác, đó là dành cho họ sự nhìn nhận tích cực và vô điều kiện về giá trị. Với sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện, người ta được yêu mến và kính trọng vì bản chất thực sự của nhân cách họ. Và chỉ những ai kinh nghiệm được sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện thì mới có thể trở thành một con người thể hiện sung mãn đời mình. Xem thêm >>> Dịch Vụ Trị Liệu Tâm Lý Qua Điện Thoại Các phê bình Người ta không ngạc nhiên khi tâm lý học nhân văn bị phê bình. Các phê bình có thể được tập trung vào điểm sau Tâm lý học nhân văn đồng hóa tâm lý học hành vi với công trình của Watson và Skinner. Cả hai tác giả này nhấn mạnh các sự kiện môi trường như là nguyên nhân của hành vi con người, đồng thời phủ nhận hay giảm thiểu tầm quan trọng của các sự kiện tinh thần. Tuy nhiên, cũng có các nhà hành vi khác nhấn mạnh các sự kiện tinh thần và mục đích trong các phân tích của họ về hành vi – ví dụ Tolman. Các nhà khoa học như Watson hay Skiner cho rằng môi trường có tính tác động lớn đến tâm lý học nhân văn Tâm lý học nhân văn không xét đến bản chất tích lũy của khoa học bằng cách nhấn mạnh rằng tâm lý học khoa học không quan tâm đến các thuộc tính siêu vật của con người. Mô tả về con người như các nhà nhân văn đề nghị thì giống với các mô tả được ưa thích trong quá khứ trong lĩnh vực văn học, thi ca hay tôn giáo. Nó diễn tả một kiểu tư duy ao ước mà không được sự hỗ trợ của các sự kiện mà khoa tâm lý học khách quan đã tích lũy được. Tâm lý học nhân văn phê bình thuyết hành vi, tâm phân học và tâm lý học khoa học nói chung, nhưng cả ba loại này đều đã có những cống hiến quan trọng cho sự cải thiện số phận con người, là mục tiêu chính mà tâm lý học nhân văn theo đuổi. Nhiều thuật ngữ và khái niệm mà các nhà tâm lý học nhân văn sử dụng thì quá mơ hồ không thể có một định nghĩa rõ ràng và có thể kiểm chứng. Thậm chí người ta còn có sự lẫn lộn về chính định nghĩa của tâm lý học nhân văn. Cống hiến Đóng góp chính của tâm lý học nhân văn cho khoa tâm lý học là việc nó mở rộng lĩnh vực của tâm lý học. Trong tâm lý học ngày nay, có một khuynh hướng ngày càng tang muốn nghiên cứu toàn thể con người. Chúng ta không chỉ muốn tìm hiểu con người học tập, suy nghĩ và phát triển thế nào về phương diện sinh vật và tri thức. Nhưng chúng ta còn muốn biết con người hình thành thế nào các kế hoạch để đạt các mục tiêu tương lai và tại sao người ta cười, khóc và tạo ý nghĩa trong cuộc đời họ. Theo đánh giá của nhiều người, tâm lý học nhân văn đã thổi một sức sống mới vào tâm lý học. Tâm lý học nhân văn đã nhìn thấy bản chất tốt đẹp trong con người, đề cao hoài bão và nỗ lực vươn lên của con người. Vì cho rằng bản chất con người vốn là tốt đẹp, có lòng vị tha, có tiềm năng sáng tạo. Nên tâm lý học nhân văn hướng đến mục tiêu giúp con người tìm được bản ngã đích thực của mình. Con người cần đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở lẫn nhau.
Một quan điểm khác về tính cách đó là Tâm lý học Nhân Văn – Humanistic Psychology, tập trung vào vùng ý thức, giá trị và niềm tin trừu tượng, bao gồm các trải nghiệm tinh thần và những niềm tin mà con người chấp nhận sống và chết vì nó. Theo các nhà Tâm lý học Nhân Văn, tính cách phụ thuộc vào những niềm tin và nhận thức của mọi người về thế giới. Nếu bạn tin rằng có một trải nghiệm đặc biệt nào đó có ý nghĩa quan trọng, thì nó đã thực sự có ý nghĩa rất lớn. Chỉ bằng cách hỏi bạn về cách diễn giải và đánh giá các sự kiện trong cuộc sống, một nhà tâm lý học có thể hiểu được bạn. Trong thần học, một người theo chủ nghĩa Nhân Văn tôn vinh tiềm năng của con người, nhìn chung là phủ nhận hoặc không nhấn mạnh đến một Đấng tối cao. Thuật ngữ Nhà tâm lý học nhân văn không ngụ ý nói đến niềm tin tôn giáo của người đó. Tâm lý học Nhân Văn xuất hiện vào những năm 1950 và 1960 như một làn sóng phản đối chống lại thuyết hành vi và thuyết phân tâm – các quan điểm tâm lý đang thống trị thời kỳ này. Các nhà hành vi học và phân tâm học thường ít nhấn mạnh các khía cạnh cao quý về suy nghĩ và hành động của con người, trong khi các nhà Tâm lý học Nhân Văn xem coi mọi người về cơ bản là tốt đẹp và nỗ lực để đạt được tiềm năng của họ. Ngoài ra, mặc dù có những khác biệt giữa thuyết hành vi và thuyết phân tâm, cả hai đều giả định thuyết tất định niềm tin rằng mỗi hành vi đều có nguyên nhân và thuyết giản lược nỗ lực giải thích hành vi theo các yếu tố cấu thành của nó. Các nhà Tâm lý học Nhân Văn không cố giải thích hành vi theo các thành phần hoặc nguyên nhân tiềm ẩn của nó. Họ cho rằng con người tự do đưa ra những quyết định có cân nhắc và ý thức. Ví dụ, con người có thể cống hiến hết mình vì một mục đích cao cả, hi sinh hạnh phúc của bản thân hoặc liều mạng vì điều đó. Đối với một nhà Tâm lý học Nhân Văn, mô tả hành vi như vậy cho những tác nhân củng cố hoặc quá trình suy nghĩ vô thức là không chính xác. Tâm lý học Nhân Văn có những điểm chung với Tâm lý học Tích Cực, đó là cả hai đều nhấn mạnh các yếu tố làm cho cuộc sống có ý nghĩa và ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên, cả hai lĩnh vực theo đuổi các phương pháp khác nhau. Trong khi các nhà nghiên cứu trong Tâm lý học Tích Cực dựa vào các bảng khảo sát, thực nghiệm … để tìm ra những đặc điểm chung, các nhà Tâm lý học Nhân Văn ghi chép những lời tự sự của từng cá nhân, sử dụng các phương pháp giống như người viết tiểu sử hơn là một nhà khoa Rogers và quan điểm tích cực vô điều kiện Photo Verywellmind Carl Rogers là một nhà Tâm lý học Nhân Văn có nhiều ảnh hưởng nhất. Ông đã nghiên cứu thần học trước khi chuyển sang tâm lý học, và ảnh hưởng của những nghiên cứu ban đầu rõ ràng trong quan điểm của ông về bản chất con người. Rogers 1980 coi bản chất của con người về cơ bản là tốt đẹp. Theo Rogers, việc con người đạt được sự ưu tú là điều tự nhiên như việc cây cối phát triển. Con người đánh giá bản thân và hành động của họ ngay khi sinh ra. Họ phát triển một khái niệm về bản thân – self concept – hình ảnh về những gì thực sự diễn ra bên trong họ, và một cái tôi lý tưởng – ideal self – hình ảnh về những gì họ muốn trở thành. Rogers đo lường khái niệm bản thân và cái tôi lý tưởng bằng cách đưa cho ai đó một tập thẻ có chứa những câu như “Tôi trung thực” “Tôi nghi ngờ người khác.” Sau đó người này sẽ sắp xếp những câu này theo vào nhóm “nói đúng” hoặc “không đúng về tôi” hoặc sắp xếp thành một chuỗi theo mức độ từ “đúng về tôi nhất” cho đến “ít đúng về tôi nhất “Phương pháp này được biết như là Q-sort. Sau đó Rogers cung cấp một tập thẻ giống hệt và yêu cầu người đó chia thành 2 tập “Đúng với cái tôi lý tưởng” và” không đúng với bản thân lý tưởng”. Bằng cách này, ông có thể so sánh khái niệm về bản thân của một người so với cái tôi của anh ta. Những người thấy được sự mâu thuẫn giữa hai nhóm này nhìn chung thường cảm thấy đau khổ. Các nhà Tâm lý học Nhân Văn cố gắng giúp đỡ mọi người vượt qua vấn đề của mình bằng cách cải thiện khái niệm bản thân hoặc thay đổi cái tôi lý tưởng ở thúc đẩy phúc lợi của con người, Rogers khẳng định rằng con người nên liên hệ lẫn nhau bằng một sự tôn trọng tích cực vô điều kiện – unconditonal positive regard, một mối quan hệ và Thomas Harris 1967 mô tả là “Tôi OK – bạn OK”. Sự tôn trọng tích cực vô điều kiện là chấp nhận hoàn toàn không phán xét một người nào đó, giống như tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Nếu bạn có được sự tôn trọng tích cực vô điều kiện, dù bạn có thể không chấp nhận hành động hoặc ý định của ai đó, bạn sẽ vẫn chấp nhận và yêu thương người đó. Quan điểm này giống với lời khuyên của Cơ đốc giáo đó là “Ghét tội lỗi nhưng yêu thương tội nhân”. Một cách thức khác đó là sự tôn trọng tích cực có điều kiện – đó là thái độ “Tôi sẽ chỉ thích bạn nếu…” Những người mà được đối xử bởi sự tôn trọng tích cực có điều kiện cảm thấy dè dặt về việc cởi mở bản thân với những ý tưởng hoặc hành động mới vì sợ mất đi sự ủng hộ từ người khác.Photo VerywellmindAbraham Maslow & Tính cách tự hiện thực hóa bản thân Abraham Maslow, một nhà Tâm lý học Nhân Văn khác, cho rằng hầu hết các nhà tâm lý học tập trung vào rối loạn tính cách, cho rằng tính cách đó bình thường hoặc tệ hơn mức bình thường. Maslow khẳng định, như Alfred Adler đã nói, tính cách cũng có thể trở nên tốt đẹp hơn mức bình thường. Ông nhấn mạnh sự hiện thực hóa bản thân – selfactualization, việc đạt được trọn vẹn tiềm năng của con người. Khái niệm hiện thực hóa bản thân giống như khái niệm về phấn đấu để đạt được tính ưu thế của Adler. Thực tế, Adler có ảnh hưởng rõ ràng đến Rogers và Maslow. Thuật ngữ “quan tâm xã hội vô điều kiện” của Adler là tiền thân của sự tôn trọng tích cực vô điều kiện. Bước đầu để mô tả tính cách hiện thực hóa bản thân, Maslow đã lập danh sách những người theo quan điểm của ông là đang phát huy được tiềm năng lớn của mình. Danh sách của ông bao gồm những người ông biết rõ về cá nhân cũng như một số người khác trong lịch sử. Ông tìm cách khám phá xem liệu họ có điểm chung gì hay Maslow 1962, 1971, những người đã hiện thực hóa bản thân hoặc đang hiện thực hóa bản thân, tính cách của họ thể hiện những đặc điểm sauCó nhận thức đúng đắn về thực tại Họ nhận thức được thế giới như nó vốn có, không phải theo cách họ muốn. Họ chấp nhận sự không chắc chắn và mơ sự độc lập, sáng tạo và sự chủ động Họ ra các quyết định riêng mình, thậm chí cả khi người khác có quan điểm trái chiềuChấp nhận bản thân và người khác đối xử với mọi người với sự tôn trọng tích cực vô điều điểm tập trung vào vấn đề hơn là tập trung vào bản thân họ nghĩ về cách giải quyết vấn đề chứ không phải cách làm thế nào để bản thân trông có vẻ tốt đẹp hơn. Họ tập trung vào các vấn đề triết học hoặc chính trị quan trọng, không chỉ tập trung vào giải quyết các vấn đề thường ngày. Niềm vui của cuộc sống Họ sẵn sàng đón nhận những trải nghiệm tích cực, bao gồm “trải nghiệm đỉnh cao” khi họ cảm thấy thực sự mãn nguyện và hài lòng. Có khiếu hài hước. Các nhà phê bình lưu ý rằng, bởi vì mô tả của Maslow dựa vào các mẫu lựa chọncủa chính ông, nó có thể đơn giản phản ánh các đặc điểm mà ông ưu tiên. Nghĩa là, lý luận của ông giống như một vòng tròn Ông xác định rõ một số người nhất định là đã tự hiện thực hóa bản thân và sau đó hỏi xem họ có điểm chung nào để đưa ra định nghĩa về “tự hiện thực hóa”. Trong bất kỳ trường hợp nào, Maslow nhấn mạnh quan điểm rằng tính cách lành mạnh giống với một thứ gì đó hơn là việc không mắc rối loạn tâm lý Kalat, J. W. 2017. Introduction to psychology 11ed. Boston, MA Cengage Learning.
tam ly hoc nhan van